
ĐỨC MẸ LA VANG

ĐỨC MẸ HIỆN RA TẠI LA VANG
Vào thời các chúa Nguyễn, La Vang nằm trong khu vực được gọi là Dinh Cát (nghĩa đen là "cung điện xây trên cát"), cách thành Dinh Cát khoảng 10 km về phía nam. Nơi này cũng cách tỉnh Quảng Trị khoảng 6 km về phía nam dưới thời vua Gia Long. Vào thời điểm đó, La Vang chỉ là một ngôi làng hẻo lánh ẩn sâu trong rừng Trường Sơn. Từ thế kỷ 17, vùng đất này thuộc về làng Cổ Vưu, và hầu hết cư dân ở đây là người gốc Cổ Vưu. Họ sống bằng nghề trồng khoai lang và ngô, trồng lúa, chặt cây, thu thập gỗ và săn bắt thú rừng.
Vì Giám mục Bá Đa Lộc đã giúp nhà Nguyễn chống lại nhà Tây Sơn, và để đàn áp tín đồ Công giáo - những người mà triều đình coi là phản bội - nên Tể tướng Bùi Đức Tuyên, thay mặt vua Cảnh Thịnh, đã ban hành hai sắc lệnh vào ngày 7 tháng 1 và ngày 24 tháng 1 năm 1795, quy định việc thờ Khổng Tử và các vị thần, và cấm thực hành đức tin Công giáo.
Mặc dù những sự kiện này diễn ra nhanh chóng, nhưng cuộc đàn áp dưới thời Hoàng đế Cảnh Thịnh lại tàn bạo và man rợ, khiến người Công giáo ở các tỉnh Thừa Thiên và Quảng Trị không có khả năng tự vệ. Các tín hữu ở Cổ Vưu và khu vực Dinh Cát rộng lớn hơn đã phải chịu tử đạo của hàng trăm người và hàng ngàn người bị cầm tù hoặc buộc phải chạy trốn. Một số người tìm nơi ẩn náu ở La Vang, ẩn náu trong những túp lều tranh, dưới tán cây hoặc giữa những bụi cây rậm rạp. Trong thời gian này, một trận dịch bệnh cũng lan rộng, cướp đi sinh mạng của nhiều người. Trong hoàn cảnh khốn cùng như vậy, các tín hữu chỉ trông cậy vào Chúa và sự chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria. Gần một cây đa, trên bãi cỏ, họ tụ tập để cầu nguyện Kinh Mân Côi và cầu xin Đức Mẹ Maria giúp đỡ.
Một ngày nọ, trong khi các tín hữu đang cầu nguyện, Đức Mẹ hiện ra. Mẹ mặc một chiếc áo choàng rực rỡ, bồng Chúa Hài Đồng, cùng với hai thiên thần. Mẹ đứng trên bãi cỏ gần cây đa nơi các tín hữu cầu nguyện. Đức Mẹ hiện ra dịu dàng và yêu thương, an ủi họ chịu đựng đau khổ với lòng kiên nhẫn, và hướng dẫn họ hái lá gần đó để làm thuốc chữa bệnh. Mẹ cũng hứa: “Hãy tin tưởng và chấp nhận thử thách của các con; Ta đã nghe lời cầu nguyện của các con. Từ nay trở đi, bất cứ ai đến cầu khẩn Ta tại đây sẽ nhận được ân sủng của Ta theo lời cầu xin của họ.”
Đức Mẹ đã hiện ra nhiều lần và truyền thống này vẫn được lưu truyền cho đến ngày nay.
Mặc dù những sự kiện này diễn ra nhanh chóng, nhưng cuộc đàn áp dưới thời Hoàng đế Cảnh Thịnh lại tàn bạo và man rợ, khiến người Công giáo ở các tỉnh Thừa Thiên và Quảng Trị không có khả năng tự vệ. Các tín hữu ở Cổ Vưu và khu vực Dinh Cát rộng lớn hơn đã phải chịu tử đạo của hàng trăm người và hàng ngàn người bị cầm tù hoặc buộc phải chạy trốn. Một số người tìm nơi ẩn náu ở La Vang, ẩn náu trong những túp lều tranh, dưới tán cây hoặc giữa những bụi cây rậm rạp. Trong thời gian này, một trận dịch bệnh cũng lan rộng, cướp đi sinh mạng của nhiều người. Trong hoàn cảnh khốn cùng như vậy, các tín hữu chỉ trông cậy vào Chúa và sự chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria. Gần một cây đa, trên bãi cỏ, họ tụ tập để cầu nguyện Kinh Mân Côi và cầu xin Đức Mẹ Maria giúp đỡ.
Một ngày nọ, trong khi các tín hữu đang cầu nguyện, Đức Mẹ hiện ra. Mẹ mặc một chiếc áo choàng rực rỡ, bồng Chúa Hài Đồng, cùng với hai thiên thần. Mẹ đứng trên bãi cỏ gần cây đa nơi các tín hữu cầu nguyện. Đức Mẹ hiện ra dịu dàng và yêu thương, an ủi họ chịu đựng đau khổ với lòng kiên nhẫn, và hướng dẫn họ hái lá gần đó để làm thuốc chữa bệnh. Mẹ cũng hứa: “Hãy tin tưởng và chấp nhận thử thách của các con; Ta đã nghe lời cầu nguyện của các con. Từ nay trở đi, bất cứ ai đến cầu khẩn Ta tại đây sẽ nhận được ân sủng của Ta theo lời cầu xin của họ.”
Đức Mẹ đã hiện ra nhiều lần và truyền thống này vẫn được lưu truyền cho đến ngày nay.

Mặc dù những sự kiện này diễn ra nhanh chóng, nhưng cuộc đàn áp dưới thời Hoàng đế Cảnh Thịnh lại tàn bạo và man rợ, khiến người Công giáo ở các tỉnh Thừa Thiên và Quảng Trị không có khả năng tự vệ. Các tín hữu ở Cổ Vưu và khu vực Dinh Cát rộng lớn hơn đã phải chịu tử đạo của hàng trăm người và hàng ngàn người bị cầm tù hoặc buộc phải chạy trốn. Một số người tìm nơi ẩn náu ở La Vang, ẩn náu trong những túp lều tranh, dưới tán cây hoặc giữa những bụi cây rậm rạp. Trong thời gian này, một trận dịch bệnh cũng lan rộng, cướp đi sinh mạng của nhiều người. Trong hoàn cảnh khốn cùng như vậy, các tín hữu chỉ trông cậy vào Chúa và sự chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria. Gần một cây đa, trên bãi cỏ, họ tụ tập để cầu nguyện Kinh Mân Côi và cầu xin Đức Mẹ Maria giúp đỡ.
Một ngày nọ, trong khi các tín hữu đang cầu nguyện, Đức Mẹ hiện ra. Mẹ mặc một chiếc áo choàng rực rỡ, bồng Chúa Hài Đồng, cùng với hai thiên thần. Mẹ đứng trên bãi cỏ gần cây đa nơi các tín hữu cầu nguyện. Đức Mẹ hiện ra dịu dàng và yêu thương, an ủi họ chịu đựng đau khổ với lòng kiên nhẫn, và hướng dẫn họ hái lá gần đó để làm thuốc chữa bệnh. Mẹ cũng hứa: “Hãy tin tưởng và chấp nhận thử thách của các con; Ta đã nghe lời cầu nguyện của các con. Từ nay trở đi, bất cứ ai đến cầu khẩn Ta tại đây sẽ nhận được ân sủng của Ta theo lời cầu xin của họ.”
Đức Mẹ đã hiện ra nhiều lần và truyền thống này vẫn được lưu truyền cho đến ngày nay.
LỊCH SỬ ĐỨC MẸ HIỆN RA TẠI LA VANG
Ngày tháng chính xác của biến cố Đức Mẹ hiện ra tại La Vang vẫn chưa được xác định, mặc dù đã trải qua hơn hai thế kỷ. Nhiều bậc cao niên, khi được hỏi, cho biết rằng họ nghe từ cha mẹ hay các thế hệ trước truyền lại rằng Đức Mẹ đã hiện ra tại La Vang khoảng một trăm năm trước đó. Tuy nhiên, tất cả những lời chứng này đều chỉ dựa trên truyền khẩu, chứ không có ghi chép lịch sử đương thời nào xác định rõ ngày tháng biến cố.
Đức Cha Hồ Ngọc Cẩn đã nhận định về Đức Mẹ La Vang như sau:
“Câu chuyện La Vang chúng ta chỉ biết qua truyền khẩu. Còn sự tích Đức Mẹ hiện ra tại La Vang có thật hay không, thì mỗi người tùy ý nhận định. Chúng tôi chỉ tóm lược rằng có những câu chuyện đã được lưu truyền, và với tầm quan trọng lớn lao của La Vang ngày nay, chắc chắn không thể hoàn toàn thiếu nền tảng lịch sử.”
Vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, cha thừa sai Claude Bonin, chánh xứ Cổ Vưu, thường hay hỏi chuyện các cụ già về biến cố Đức Mẹ hiện ra. Một lần, khi ban Bí tích Xức Dầu cho một cụ bà gần 100 tuổi, ngài hỏi:
“Cụ sắp về trình diện trước tòa Chúa, xin cụ nói thật: khi còn nhỏ, cụ có nghe nói rằng Đức Mẹ hiện ra ở La Vang không?”
Cụ trả lời: “Thưa có, con nghe cha mẹ và các bậc lão thành kể lại rằng biến cố ấy đã xảy ra… vào thời ngay trước khi con ra đời, khi quê hương ta đang chịu cơn bách hại dữ dội.”
Dựa vào các chứng liệu lịch sử vào cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, cũng như các ghi chép về cuộc bách hại, câu hỏi được đặt ra: Vậy biến cố Đức Mẹ hiện ra tại La Vang thực sự xảy ra vào thời điểm nào?
Trong thời các Chúa Trịnh (1775–1786), sau khi chiếm Phú Xuân, đã có hai chỉ dụ cấm đạo vào các năm 1779 và 1783. Tuy nhiên, các chỉ dụ này không được thi hành nghiêm ngặt. Ngoại trừ một vài nơi mà chính quyền địa phương tịch thu ruộng đất, bắt đóng sưu cao, hay ép buộc tham gia lễ nghi ngoại giáo, thì nhìn chung, người tín hữu chưa buộc phải trốn vào rừng sâu hay chạy ra vùng duyên hải.
Theo thư của Đức Cha Gioan Labartette đề ngày 9 tháng 1 năm 1791, vào năm 1790, vua Nguyễn Huệ có ra lệnh truy nã các nhà truyền giáo. Nhưng cuộc truy nã này chỉ kéo dài sáu ngày, không có việc tra khảo hay bách hại rộng rãi nhắm vào giáo dân. Do đó, tín hữu vùng Dinh Cát chưa phải chạy vào La Vang để lánh nạn.
Sau đó, khi vua Gia Long (Nguyễn Ánh) lên ngôi năm 1802, đất nước thống nhất và trong thời gian này chưa có cuộc bách hại nào. Đến thời vua Minh Mạng (1820–1840), những cuộc bách hại khốc liệt mới bắt đầu sau năm 1833.
Sử liệu cho biết rằng chỉ mười ngày sau một cuộc đàn áp, vua Cảnh Thịnh đã ban chiếu chỉ:
“Phá hủy tất cả nhà thờ và nhà của các giáo sĩ, bắt giam hết thảy ai bị phát hiện. Dân phải giữ Tam Cương Ngũ Thường: vua tôi cho trung, cha con cho hiếu, vợ chồng cho nghĩa; nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Đạo Da-tô chứa đựng nhiều tà thuyết, phải tận diệt. Vậy vì lợi ích quốc gia, Hoàng đế truyền hủy diệt tôn giáo xấu xa này.”
Trong thư đề ngày 25 tháng 6 năm 1801, thừa sai Girard cũng ghi lại:
“Cuộc bách hại này chỉ kéo dài khoảng một tháng, do sự phân hóa nội bộ giữa nhà Tây Sơn. Họ lo sợ lẫn nhau xử tử, nên muốn để chúng tôi yên thân.”
Khoảng thời gian “một tháng” ấy tương ứng từ ngày 7 tháng 8 đến ngày 7 tháng 9 năm 1798. Do đó, có thể kết luận rằng biến cố Đức Mẹ hiện ra tại La Vang đã xảy ra vào khoảng tháng 8 hoặc đầu tháng 9 năm 1798, trong cơn bách hại khốc liệt. Đây cũng là thời gian Cha Emmanuel Nguyễn Văn Triệu được phúc tử đạo: ngài bị bắt ngày 8 tháng 8 năm 1798 và hiến dâng mạng sống vì đức tin ngày 17 tháng 9 năm 1798.
CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
Các Thánh Tử đạo Việt Nam (tiếng Việt: Các Thánh Tử đạo Việt Nam ), còn được gọi là các Thánh Tử đạo Bắc Kỳ và Nam Kỳ, gọi chung là các Thánh Tử đạo An Nam hoặc trước đây là các Thánh Tử đạo Đông Dương, là các vị thánh của Giáo hội Công giáo đã được Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II phong thánh. Vào ngày 19 tháng 6 năm 1988, hàng ngàn người Việt Nam ở nước ngoài trên toàn thế giới đã tụ họp tại Quảng trường Thánh Phêrô để cử hành lễ phong thánh cho 117 Thánh Tử đạo Việt Nam, một sự kiện do Đức ông Trần Văn Hoài tổ chức. Lễ tưởng niệm của họ trong Lịch chung La Mã hiện tại là ngày 24 tháng 11 với tên gọi là Thánh Anrê Dũng Lạc và các Bạn Tử đạo (tiếng Việt: Anrê Dũng Lạc và các bạn tử đạo ), mặc dù nhiều vị thánh trong số này có lễ tưởng niệm thứ hai, đã được phong chân phước và ghi vào lịch địa phương trước khi nhóm được phong thánh.
LỊCH SỬ
Tòa thánh Vatican ước tính số lượng các vị tử đạo Việt Nam vào khoảng từ 130.000 đến 300.000. Đức Gioan Phaolô II quyết định phong thánh cho cả những vị được biết đến và những vị vô danh, dành cho họ một ngày lễ duy nhất.
Các vị tử đạo Việt Nam được chia thành nhiều nhóm: những người thuộc thời kỳ truyền giáo Đa Minh và Dòng Tên vào thế kỷ 18 và những người bị giết trong các cuộc đàn áp chính trị vào thế kỷ 19. Một mẫu đại diện chỉ có 117 vị tử đạo - bao gồm 96 người Việt Nam, 11 người Đa Minh Tây Ban Nha và 10 thành viên người Pháp của Hội Truyền giáo Hải ngoại Paris (Missions Etrangères de Paris (MEP)) - được phong chân phước trong bốn

Các Thánh Tử đạo Việt Nam (tiếng Việt: Các Thánh Tử đạo Việt Nam ), còn được gọi là các Thánh Tử đạo Bắc Kỳ và Nam Kỳ, gọi chung là các Thánh Tử đạo An Nam hoặc trước đây là các Thánh Tử đạo Đông Dương, là các vị thánh của Giáo hội Công giáo đã được Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II phong thánh. Vào ngày 19 tháng 6 năm 1988, hàng ngàn người Việt Nam ở nước ngoài trên toàn thế giới đã tụ họp tại Quảng trường Thánh Phêrô để cử hành lễ phong thánh cho 117 Thánh Tử đạo Việt Nam, một sự kiện do Đức ông Trần Văn Hoài tổ chức. Lễ tưởng niệm của họ trong Lịch chung La Mã hiện tại là ngày 24 tháng 11 với tên gọi là Thánh Anrê Dũng Lạc và các Bạn Tử đạo (tiếng Việt: Anrê Dũng Lạc và các bạn tử đạo ), mặc dù nhiều vị thánh trong số này có lễ tưởng niệm thứ hai, đã được phong chân phước và ghi vào lịch địa phương trước khi nhóm được phong thánh.
LỊCH SỬ
Tòa thánh Vatican ước tính số lượng các vị tử đạo Việt Nam vào khoảng từ 130.000 đến 300.000. Đức Gioan Phaolô II quyết định phong thánh cho cả những vị được biết đến và những vị vô danh, dành cho họ một ngày lễ duy nhất.
Các vị tử đạo Việt Nam được chia thành nhiều nhóm: những người thuộc thời kỳ truyền giáo Đa Minh và Dòng Tên vào thế kỷ 18 và những người bị giết trong các cuộc đàn áp chính trị vào thế kỷ 19. Một mẫu đại diện chỉ có 117 vị tử đạo - bao gồm 96 người Việt Nam, 11 người Đa Minh Tây Ban Nha và 10 thành viên người Pháp của Hội Truyền giáo Hải ngoại Paris (Missions Etrangères de Paris (MEP)) - được phong chân phước trong bốn

Những người cải đạo bắt đầu bị chính quyền địa phương sách nhiễu mà không có sắc lệnh chính thức vào cuối những năm 1820. Năm 1831, hoàng đế ban hành luật mới về các quy định đối với các nhóm tôn giáo ở Việt Nam, và Công giáo sau đó chính thức bị cấm. Năm 1832, hành động đầu tiên xảy ra tại một ngôi làng phần lớn theo Công giáo gần Huế, với toàn bộ cộng đồng bị giam cầm và lưu đày sang Campuchia. Vào tháng 1 năm 1833, một sắc lệnh mới trên toàn vương quốc được ban hành, kêu gọi thần dân Việt Nam từ bỏ tôn giáo của Chúa Jesus và yêu cầu những người bị nghi ngờ là Công giáo phải thể hiện sự từ bỏ của họ bằng cách đi trên một cây thánh giá gỗ. Tuy nhiên, bạo lực thực sự chống lại người Công giáo đã không xảy ra cho đến cuộc khởi nghĩa Lê Văn Khôi.
Trong cuộc nổi loạn, một linh mục truyền giáo trẻ người Pháp, Joseph Marchand, bị bệnh và đang cư trú tại thành Gia Định của quân nổi loạn. Tháng 10 năm 1833, một viên quan của hoàng đế báo cáo với triều đình rằng một nhà lãnh đạo tôn giáo Cơ đốc giáo nước ngoài đang có mặt trong thành. Tin tức này được dùng để biện minh cho các sắc lệnh chống lại Công giáo và dẫn đến những vụ hành quyết các nhà truyền giáo đầu tiên sau hơn 40 năm. Người bị hành quyết đầu tiên tên là Francois Gagelin. Marchand cuối cùng bị bắt và bị xử tử với tư cách là một "thủ lĩnh phiến quân" vào năm 1835; ông bị xử tử bằng hình thức "cắt lát chậm".[12] Các biện pháp đàn áp khác đã được áp dụng sau sự kiện này vào năm 1836. Trước năm 1836, các trưởng làng chỉ cần báo cáo với các quan lại địa phương về việc thần dân của họ đã từ bỏ Công giáo. Tuy nhiên, sau năm 1836, các quan chức có thể đến thăm các làng và buộc tất cả dân làng phải xếp hàng từng người một để giẫm lên cây thánh giá, và nếu một cộng đồng bị nghi ngờ chứa chấp một nhà truyền giáo, dân quân có thể phong tỏa làng. Các quan quân sẽ đi đến từng cổng làng và tiến hành lục soát gắt
gao; nếu tìm thấy thừa sai, cả cộng đoàn có thể bị liên lụy và chịu hình phạt tập thể. Đôi khi, các thừa sai và cộng đoàn Kitô hữu thoát khỏi án phạt bằng cách hối lộ quan quyền; cũng có lúc họ trở thành nạn nhân của những kẻ tống tiền, buộc phải nộp bạc vàng dưới đe dọa sẽ tố giác các làng đạo và các vị thừa sai cho quan phủ. Cha thừa sai Pierre Duclos đã thốt lên: “Chỉ với những thỏi vàng, tội ác giết chóc và cướp bóc cũng có thể mọc lên ngay giữa những người vốn ngay thẳng.”
Triều đình ngày càng nhận thấy sự yếu kém trong việc thi hành lệnh cấm đạo nên đã gia tăng áp lực đối với quan lại. Những ai không hành động, hay hành động chậm chạp, đều bị giáng chức hoặc bãi chức (thậm chí có khi bị trừng phạt nặng nề về thân xác). Trái lại, những kẻ tấn công và giết hại tín hữu thì lại được ban thưởng hoặc thăng quan. Có khi con cháu hoặc những thuộc hạ cấp thấp của quan lại được sai đi ngầm dò xét các làng, nhằm phát hiện những thừa sai đang ẩn trốn hay những tín hữu chưa chịu bỏ đạo.
Người thừa sai đầu tiên bị bắt trong giai đoạn này (và sau đó bị xử tử) là Cha Jean-Charles Cornay, năm 1837. Một chiến dịch quân sự đã diễn ra tại Nam Định sau khi nhà vua phát hiện những lá thư trên một chiếc tàu đắm đang trên đường sang Ma Cao. Vào năm 1838, quan quân Quảng Trị và Quảng Bình bắt được nhiều linh mục cùng với Đức Cha thừa sai người Pháp Pierre Dumoulin-Borie, và ngài đã chịu phúc tử đạo. Cũng trong thời gian này, một tín hữu Công giáo tên Francois Jaccard, vốn là thông dịch viên của triều đình, đã bị hành quyết sau nhiều năm bị giam cầm — dù ông là người rất quý giá đối với triều đình. Vị quan được giao xử tử ông đã bị bãi chức gần như ngay lập tức.
Cha Ignatius Delgado bị bắt tại làng Cần Lao (tỉnh Nam Định), bị nhốt trong cũi, phơi bày trước công chúng để chịu nhục mạ và hành hạ, rồi chết dần vì đói khát và sương gió trước khi bị xử tử. Quan quân bắt ngài được trọng thưởng, phân phát khoảng 3 kg bạc cho binh lính, và cả dân làng tố giác ngài cũng được thưởng. Đức Cha Dominic Henares bị phát hiện tại huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định, sau đó cũng chịu tử đạo; những kẻ tham gia bắt ngài cũng được ban thưởng hậu hĩnh. Cha Joseph Fernandez cùng linh mục bản quốc Nguyễn Bá Tuấn bị bắt ở Kim Song, Nam Định; các quan tỉnh được thăng chức, còn dân làng tố giác thì nhận được khoảng 3 kg bạc cùng nhiều phần thưởng khác.
Tháng 7 năm 1838, một viên quan tổng đốc từng bị giáng chức đã tìm cách lấy lại địa vị bằng cách bắt cha Đặng Đình Viên tại Yên Dũng, tỉnh Bắc Ninh. Cha Viên sau đó chịu phúc tử đạo. Năm 1839, cùng vị quan này lại bắt thêm hai linh mục nữa: cha Đinh Viết Du và cha Nguyễn Văn Xuyên, cả hai đều được phúc tử đạo.

Tại Như Lý gần Huế, một bác sĩ Công giáo lớn tuổi tên là Simon Hoa đã bị bắt và xử tử. Ông đã che chở cho một nhà truyền giáo tên là Charles Delamotte, người mà dân làng đã cầu xin ông đuổi đi. Làng cũng được cho là sẽ dựng một đền thờ cho nhà thờ quốc giáo, nhưng vị bác sĩ cũng phản đối. Địa vị và tuổi tác đã giúp ông không bị bắt cho đến năm 1840 khi ông bị đưa ra xét xử, và vị thẩm phán đã cầu xin (do địa vị của ông trong xã hội Việt Nam vừa là một bô lão vừa là một bác sĩ) công khai rút lại lời khai; khi ông từ chối, ông đã bị xử tử công khai.
Một sự việc kỳ lạ xảy ra vào cuối năm 1839, khi một ngôi làng ở tỉnh Quảng Ngãi tên là Phước Lâm bị bốn người đàn ông tống tiền dân làng dưới sự đe dọa sẽ báo cáo sự hiện diện của Cơ đốc giáo với chính quyền. Thống đốc tỉnh có một người cháu trai theo Công giáo đã kể cho ông nghe về những gì đã xảy ra, và sau đó thống đốc đã tìm thấy bốn người đàn ông (bị bắt quả tang đang hút thuốc phiện) và đã xử tử hai người cũng như lưu đày hai người. Khi một nhà lãnh đạo giáo dân Công giáo sau đó đến gặp thống đốc để bày tỏ lòng biết ơn (có lẽ do đó vạch trần những gì thống đốc đã làm), thống đốc nói với anh ta rằng những người đã đến để chết vì tôn giáo của họ bây giờ nên chuẩn bị tinh thần và để lại một cái gì đó cho vợ con của họ; khi tin tức về toàn bộ sự việc bị lộ ra, thống đốc đã bị cách chức vì bất tài.
Nhiều viên chức muốn tránh hành quyết vì nó đe dọa đến trật tự và sự hòa hợp xã hội, và dùng đến các biện pháp đe dọa hoặc tra tấn để buộc người Công giáo phải từ bỏ đức tin. Theo các báo cáo của phái bộ, nhiều dân làng đã bị hành quyết cùng với các linh mục. Hoàng đế băng hà vào năm 1841, và điều này đã mang lại sự khoan hồng cho người Công giáo. Tuy nhiên, một số cuộc đàn áp vẫn tiếp diễn sau khi hoàng đế mới lên ngôi. Các làng Công giáo bị buộc phải xây dựng các đền thờ để tôn thờ nhà nước. Nhà truyền giáo Cha Pierre Duclos (được trích dẫn ở trên) đã chết trong tù vào tháng 6 năm 1846 sau khi bị bắt trên sông Sài Gòn. Thật không may, chiếc thuyền mà ông đi lại chứa số tiền được dùng để hối lộ hàng năm cho các quan chức khác nhau (lên đến 1/3 ngân sách truyền giáo hàng năm của Pháp cho Nam Kỳ được chính thức phân bổ cho 'nhu cầu đặc biệt') để ngăn chặn thêm các vụ bắt giữ và đàn áp những người cải đạo; do đó, sau khi ông bị bắt, các viên chức sau đó đã bắt đầu tìm kiếm rộng rãi và đàn áp các cộng đồng Công giáo trong khu vực tài phán của họ. Số tiền mà các hội truyền giáo Pháp có thể gây quỹ được đã biến các nhà truyền giáo thành mục tiêu béo bở cho các quan chức muốn có tiền mặt, thậm chí có thể vượt qua cả số tiền mà triều đình đề nghị thưởng. Điều này tạo ra một vòng luẩn quẩn tống tiền và hối lộ kéo dài nhiều năm.

Nhiều viên chức muốn tránh hành quyết vì nó đe dọa đến trật tự và sự hòa hợp xã hội, và dùng đến các biện pháp đe dọa hoặc tra tấn để buộc người Công giáo phải từ bỏ đức tin. Theo các báo cáo của phái bộ, nhiều dân làng đã bị hành quyết cùng với các linh mục. Hoàng đế băng hà vào năm 1841, và điều này đã mang lại sự khoan hồng cho người Công giáo. Tuy nhiên, một số cuộc đàn áp vẫn tiếp diễn sau khi hoàng đế mới lên ngôi. Các làng Công giáo bị buộc phải xây dựng các đền thờ để tôn thờ nhà nước. Nhà truyền giáo Cha Pierre Duclos (được trích dẫn ở trên) đã chết trong tù vào tháng 6 năm 1846 sau khi bị bắt trên sông Sài Gòn. Thật không may, chiếc thuyền mà ông đi lại chứa số tiền được dùng để hối lộ hàng năm cho các quan chức khác nhau (lên đến 1/3 ngân sách truyền giáo hàng năm của Pháp cho Nam Kỳ được chính thức phân bổ cho 'nhu cầu đặc biệt') để ngăn chặn thêm các vụ bắt giữ và đàn áp những người cải đạo; do đó, sau khi ông bị bắt, các viên chức sau đó đã bắt đầu tìm kiếm rộng rãi và đàn áp các cộng đồng Công giáo trong khu vực tài phán của họ. Số tiền mà các hội truyền giáo Pháp có thể gây quỹ được đã biến các nhà truyền giáo thành mục tiêu béo bở cho các quan chức muốn có tiền mặt, thậm chí có thể vượt qua cả số tiền mà triều đình đề nghị thưởng. Điều này tạo ra một vòng luẩn quẩn tống tiền và hối lộ kéo dài nhiều năm.
DANH SÁCH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

-
Andrew Dung-Lac An Tran, Vietnamese priest
-
Andrew Thong Kim Nguyen, layman
-
Andrew Trong Van Tran, layman and soldier
-
Andrew Tuong Manh Nguyen, layman
-
Anthony Dich Tien Nguyen, layman
-
Anthony Quynh Huu Nguyen, layman and doctor
-
Agnes Thanh-De Thi Le, laywoman
-
Augustin Schoeffler MEP, French priest
-
Augustine Huy Viet Phan, layman and soldier
-
Augustine Moi Van Nguyen, layman
-
Bernard Vũ Văn Duệ, Vietnamese priest
-
Celement Ignatius Delgado Y OP, Spanish bishop
-
Dominic Cam Van Nguyen, Vietnamese priest
-
Dominic Dat Dinh, layman and soldier
-
Dominic Hanh Van Nguyen OP, Vietnamese priest
-
Dominic Henares Minh, Spanish bishop
-
Dominic Huyen Van Tran, layman and fisherman
-
Dominic Kham Trong Pham, layman and local judge
-
Dominic Mau Duc Dinh, Vietnamese priest
-
Dominic Mao Duc Nguyen, layman
-
Dominic Nhi Duc Nguyen, layman
-
Dominic Ninh Duy Tran, layman
-
Dominic Nguyen Huy Nguyen, layman
-
Dominic Toai Van Tran, layman and fisherman
-
Dominic Trach-Doai Duc Vu OP, Vietnamese priest
-
Dominic Tuoc Dinh Vu OP, Vietnamese priest
-
Dominic Uy Van Bui, catechist
-
Dominic Xuyen Van Nguyen OP, Vietnamese priest
-
Emmanuel Phung Van Le, layman
-
Emmanuel Trieu Van Nguyen, Vietnamese priest
-
Francis Chieu Van Do, catechist
-
Francis Gil de Frederich Te OP, Spanish priest
-
Francis Isidore Gagelin Kinh MEP, French priest
-
Francis Jaccard Phan MEP, French priest
-
Francis Trung Van Tran, layman and military officer
-
Francis Xavier Can Nguyen, catechist
-
Francis Xavier Mau Trong Ha, catechist
-
Hyacinth Casteñeda Gia OP, Spanish priest
-
James Nam Mai Do, Vietnamese priest
-
Jean-Charles Cornay MEP, French priest
-
Jerome Hermosilla OP, Spanish bishop
-
John Dat Viet Doan, Vietnamese priest
-
John Hoan Trinh Doan, Vietnamese priest
-
John Louis Bonnard Huong MEP, French priest
-
John Baptist Con Ngoc Tran, layman
-
John Baptist Thanh Van Dinh, catechist
-
Joseph Mary Díaz Sanjurjo OP, Spanish bishop
-
Joseph Canh Luong Hoang, layman and doctor
-
Joseph Fernández de Ventosa OP, Spanish priest
-
Joseph Hien Quang Do OP, Vietnamese priest
-
Joseph Khang Duy Nguyen, catechist
-
Joseph Luu Van Nguyen, layman
-
Joseph Marchand MEP, French priest
-
Joseph Nghi-Kim Dinh Nguyen, Vietnamese priest
-
Joseph Thi Dang Le, layman and military officer
-
Joseph Uyen Dinh Nguyen, Vietnamese priest
-
Joseph Vien Dinh Dang, Vietnamese priest
-
Joseph Ta Trong Pham, layman and governor
-
Joseph Tuc Quang Pham, layman
-
Joseph Tuan Van Tran OP, Vietnamese priest
-
Joseph Tuan Van Tran, layman
-
Lawrence Ngon Viet Pham, layman and soldier
-
Lawrence Huong Van Nguyen, Vietnamese priest
-
Luke Loan Ba Vu, Vietnamese priest
-
Luke Thin Trong Pham, layman and governor
-
Martin Tho Ngoc Tran, layman
-
Martin Thinh Duc Ta, Vietnamese priest
-
Matthew Alonzo Leciniana Dau, OP, Spanish priest
-
Matthew Phuong-Dac Van Nguyen, layman
-
Matthew Gam Van Le, layman and merchant
-
Melchior García Sampedro OP, Spanish bishop
-
Michael Hy Dinh Ho, layman and court mandarin
-
Michael My Huy Nguyen, layman
-
Nicholas The Duc Bui, layman and soldier
-
Paul Tong Viet Buong, layman and military officer
-
Paul Duong-Dong Van Vu, layman
-
Paul Hanh Van Tran, layman
-
Paul Khoan Khac Pham, Vietnamese priest
-
Paul Loc Van Le, Vietnamese priest
-
Paul My Van Nguyen, catechist
-
Paul Ngan Nguyen, Vietnamese priest
-
Paul Tinh Bao Le, Vietnamese priest
-
Peter Almató OP, Spanish priest
-
Peter Thuan Van Dinh, layman
-
Peter Dung Van Dinh, layman
-
Peter Da Huu Phan, layman and carpenter
-
Peter Duong Van Truong, catechist
-
Peter Francis Néron MEP, French priest
-
Peter Hieu Van Nguyen, catechist
-
Peter Khanh Hoang, Vietnamese priest
-
Peter Khoa Dang Vu, Vietnamese priest
-
Peter Luu Van Nguyen, Vietnamese priest
-
Peter Qui Cong Doan, Vietnamese priest
-
Peter Thi Van Truong, Vietnamese priest
-
Peter Truat Van Vu, catechist
-
Peter Tu Van Nguyen OP, Vietnamese priest
-
Peter Tu Khac Nguyen, catechist
-
Peter Tuan Ba Nguyen, Vietnamese priest
-
Peter Tuy Le, Vietnamese priest
-
Peter Van Van Doan, catechist
-
Philip Minh Van Phan, Vietnamese priest
-
Pierre Dumoulin-Borie MEP, French bishop
-
Simon Hoa Dac Phan, layman and doctor
-
Stephen Theodore Cuenot The MEP, French bishop
-
Stephen Vinh Van Nguyen, layman
-
Théophane Vénard MEP, French priest
-
Thomas De Van Nguyen, layman
-
Thomas Du Viet Dinh, Vietnamese priest
-
Thomas Thien Van Tran, seminarian
-
Thomas Toan Dinh Dao, catechist
-
Thomas Khuong Tuc Ngo, Vietnamese priest
-
Valentine Berriochoa, OP, Spanish bishop
-
Vincent Phạm Hiếu Liêm (Vicente Liêm de la Paz), OP, Vietnamese priest
-
Vincent Duong Van Pham, layman
-
Vincent Diem The Nguyen, Vietnamese priest
-
Vincent Tuong Manh Nguyen, layman and local judge
-
Vincent Yen Do, OP, Vietnamese priest
-
Blessed Andrew of Phu Yen, catechist
Vietnamese Community History
in Columbia
Finding Inspiration in Every Turn
Vietnamese Catholics have been a minority within their native country since Christianity was introduced in the sixteenth century. As immigrants and refugees dispersed throughout the globe in the twentieth century, they identified themselves in their new homes by their nationality and their faith. Keeping faith with martyrs in their culture, while worshiping in their adoptive country, defines Vietnamese Catholics of South Carolina and elsewhere. Vietnamese Catholics in South Carolina are a vibrant example of faith in exile. These Catholics enrich the Church, and their story is similar to those of other immigrant Catholics who make up the community of faith.

Ý nghĩa của Logo

Logo này được thiết kế dựa trên nguồn cảm hứng chắt lọc và chiêm nghiệm từ huy hiệu của Giáo phận chúng ta. Nó mang hình dáng một con tàu dũng cảm dấn thân vào biển khơi, vang vọng lời kêu gọi: “Duc in Altum – Hãy ra khơi”. Logo không chỉ nói về nguồn gốc của cộng đồng Công giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ – được hình thành từ đức tin và sự hy sinh của tổ tiên chúng ta – mà còn nói về sứ mệnh đang diễn ra của chúng ta: truyền giáo, và tiếp tục truyền giáo, đến với những người ở xa, những người chưa biết đến Chúa Kitô.
-
Phía trước là ba cây thánh giá cổ, được giữ nguyên vẹn từ huy hiệu giáo phận. Đây là những cây thánh giá Moline, tượng trưng cho sự chiêm niệm cầu nguyện kết hợp với tinh thần dũng cảm của các tu sĩ dòng Biển Đức. Chúng cũng xuất hiện trên huy hiệu giáo hoàng của Đức Giáo hoàng Piô VII, Đức Thánh Cha, người mà đã thiết lập Giáo Phận chúng
ta. Con số ba tượng trưng cho Chúa Ba Ngôi Chí Thánh, nhắc nhở chúng ta rằng Thiên Chúa Ba Ngôi là nền tảng, sức mạnh và nguồn động lực tâm linh luôn hiện hữu, như ngọn gió vững vàng dẫn dắt con tàu tiến về phía trước.
-
Con tàu được sơn màu nâu sẫm, màu chủ đạo của huy hiệu giáo phận, tượng trưng cho sự khiêm nhường và sức chịu đựng bền bỉ đã hình thành nên tính cách của người Việt Nam. Cánh buồm phía sau mang hình bóng của một đoàn người, tượng trưng cho những tín hữu đã đứng lên làm chứng cho Đức Tin, thậm chí đến mức tử đạo. Giữa họ, chúng ta ngồi đó - những người con trai và con gái Việt Nam cùng nhau hành trình trên con tàu này. Cánh buồm được kết hợp vào bảy hình dạng giống như những ngọn đèn, tượng trưng cho Bảy Ơn của Chúa Thánh Thần. Những hình ảnh này gợi lên thực tế rằng, với sức mạnh của Thiên Chúa, sự chuyển cầu của tổ tiên chúng ta trong đức tin, và sự hiệp nhất giữa những người trên con thuyền này, chúng ta cùng nhau tiến về phía trước.
-
Những con sóng đỏ bên dưới, tuy tinh tế, gợi nhớ đến một lá cờ đầy ý nghĩa, tượng trưng cho sự đoàn kết của ba miền đất nước Việt Nam. Đây không phải là những con sóng xanh của biển cả bình thường, mà là màu đỏ, tượng trưng cho máu của các vị tử đạo đã đổ ra để làm chứng cho tình yêu thiêng liêng. Phần trên của mỗi con sóng là màu đỏ, trong khi phần dưới là màu nâu của đất, biểu thị rằng tình yêu này, được in dấu bằng máu vì Đức Tin, đã thấm sâu vào lòng đất, trở thành nền tảng vững chắc cho các thế hệ mai sau.
-
Ngôi sao sáng nhất bên phải tượng trưng cho Đức Trinh Nữ Maria, Ngôi Sao Biển (Stella Maris), đã dìu dắt con cái Việt Nam vượt qua những hiểm nguy trong quá khứ, và ngay cả bây giờ vẫn tiếp tục dẫn dắt và an ủi chúng ta trên những hành trình vượt biển. Nguyện xin Mẹ mãi mãi là ngôi sao dẫn đường cho chúng ta.
-
Phía dưới là biểu tượng Đức Mẹ Maria, gợi nhớ đến Mẹ La Vang yêu dấu của chúng ta, người luôn ở gần, che chở và ôm ấp các con mình trong mọi hoàn cảnh.
-
Hai nhánh lá ôm lấy hình ảnh gợi nhớ đến các vị Tử Đạo Việt Nam, mọc lên từ Nữ Vương các Thánh Tử Đạo, người đã ôm trọn con cái mình vào vòng tay hiền mẫu. Hình ảnh này cũng là lời nhắc nhở thầm lặng rằng trong mọi thời đại, sự thánh thiện đều có thể đạt được. Dù chúng ta có thể không chịu tử đạo bằng gươm giáo hay bách hại, chúng ta vẫn được kêu gọi sống một cuộc tử đạo âm thầm giữa thế gian, để nên thánh giữa đời thường.
Meet The Team

---
---

---
---

---
------

---
---

---
-----

---
-----

---
-----

---
---

---
--

---
---

---
---

---
-----